CƠ CHẾ BẮT CHÁY CỦA VẬT LIỆU VÀ GIẢI PHÁP CHỐNG CHÁY

Cơ chế nhiệt

Nhiệt làm tốc độ phản ứng ôxy hoá tăng lên và trong mối quan hệ biến đổi của nhiệt do phản ứng toả ra và nhiệt truyền đi trong quá trình ôxy hoá đó của hỗn hợp làm xuất hiện ngọn lửa (nhiệt tỏa ra từ các phản ứng của hỗn hợp cháy q+ lớn hơn lượng nhiệt mất mát từ hỗn hợp ra môi trường xung quanh q- , nhiệt độ trong hỗn hợp tăng lên làm xuất hiện sự cháy). Theo cơ cấu bắt cháy nhiệt thì lượng nhiệt do phản ứng toả ra là nguyên nhân gây ra quá trình tự bắt cháy của hỗn hợp.

Cơ chế chuỗi

Lý thuyết tự bắt cháy theo cơ cấu chuỗi do viện sỹ N. N. Xêmenôv đưa ra vào năm 1931. Khi mỗi một phần tử hoạt động tham gia phản ứng làm tách ra một năng lượng bằng E + Q (E- năng lượng hoạt hoá, Q – hiệu ứng nhiệt của phản ứng). Năng lượng đó truyền trực tiếp cho một hoặc vài phần tử trong số các phần tử phản ứng, kích động chúng đến trạng thái hoạt động. Nghĩa là tạo ra các phần tử hoạt động mới.

Theo lý thuyết phản ứng chuỗi, quá trình trải qua các giai đoạn sau:

Giai đoạn sinh mạch: Các phần tử chất cháy và chất ôxy hoá được hoạt hoá nhờ năng lượng tự thân, năng lượng nhiệt, năng lượng của ánh sáng hoặc do va chạm với một phần tử thứ ba nào đó,… Kết quả là tạo ra những phần tử hoạt động (còn gọi là tâm hoạt động), những tâm hoạt động này có khả năng tham gia vào các phản ứng ở giai đoạn tiếp theo.

Giai đoạn phát triển mạch:  Nhờ những tâm hoạt động ban đầu mà phản ứng tiếp tục phát triển và tái tạo những tâm hoạt động mới. Phản ứng phát triển một cách dây chuyền, các tâm hoạt động được tái tạo nếu không có gì cản trở.

Nếu từ một tâm hoạt động ban đầu khi phản ứng chỉ tái tạo một tâm mới thì phản ứng là phản ứng chuỗi không phân nhánh. Nếu từ một tâm hoạt động ban đầu khi phản ứng tái tạo được hai hay nhiều tâm mới thì phản ứng là phản ứng chuỗi phân nhánh. Các phản ứng cháy hầu hết là phản ứng chuỗi phân nhánh, nên tốc độ cháy phát triển rất nhanh.

Giai đoạn triệt mạch (hay đứt mạch): Do va chạm với các phần tử trơ, do các phản ứng phụ, … các tâm hoạt động bị triệt tiêu, nghĩa là chúng chuyển thành các phần tử kém hoạt động hoặc những phần tử ổn định mất khả năng tham gia phản ứng tiếp theo, mạch của phản ứng bị triệt tiêu. Nếu cường độ triệt mạch đủ lớn thì phản ứng sẽ bị ngừng lại.

Sự phát triển của phản ứng chuỗi, khả năng bắt cháy của hỗn hợp, tuỳ thuộc vào tỷ lệ giữa phản ứng phát triển mạch và đứt mạch. Trong phản ứng chuỗi không phân nhánh, tốc độ phản ứng là không đổi. Trong phản ứng chuỗi phân nhánh, tốc độ phản ứng tăng liên tục, phản ứng tự xúc tiến.

GIẢI PHÁP CHỐNG CHÁY CỦA CHÚNG TÔI

Trong phạm vi nghiên cứu về tác động làm chậm cháy và chống cháy cho các chất và vật liệu cần bảo vệ ở trạng thái rắn. Chất cháy rắn là vật liệu được sử dụng rất phổ biến trong lĩnh vực sản xuất cũng như trong sinh hoạt. Hiện nay với sự phát triển của khoa học kỹ thuật, ngoài vật liệu rắn có nguồn gốc từ tự nhiên còn tồn tại rất nhiều vật liệu rắn tổng hợp và chúng được sử dụng rộng rãi trên hầu hết các lĩnh vực.  

Vấn đề chống cháy cho các vật liệu tự nhiên cũng như các vật liệu nhân tạo luôn được quan tâm, như vấn đề ngâm, tẩm chất chống cháy cho các vật liệu tự nhiên hoặc làm tăng khả năng chịu cháy của các vật liệu nhân tạo bằng cách pha chế thêm các thành phần chất khó cháy…. Tuy nhiên về cơ bản chúng vẫn thuộc nhóm các chất cháy. Đó là một trong các nguyên nhân trong thời gian qua số lượng các vụ cháy chất rắn vẫn không ngừng tăng.

Với những kiến thức chuyên môn sâu về lĩnh vực vật liệu vô cơ, màng phủ vô cơ chịu nhiệt và chống cháy. Trên cơ sở nắm vững về CƠ CHẾ BẮT CHÁY CỦA VẬT LIỆU, nhóm các nhà khoa học thuộc Đại học Bách khoa Hà Nội đã nghiên cứu và sản xuất thành công SƠN VÔ CƠ CHỐNG CHÁY cho các vật liệu dễ cháy như GỖ, NHỰA, GIẤY, VẢI, KIM LOẠI. Với nhiều màu sắc phong phú, sản phẩm Sơn vô cơ chống cháy không chỉ đáp ứng yêu cầu chống cháy mà còn có tính thẩm mỹ cao.

Hãy liên hệ để được tư vấn và đặt hàng qua số điện thoại:0912.540.041 (zalo).